Giới thiệu:
Việt điện u linh tập là một tuyển tập truyện sưu tầm những truyền thuyết dân gian về những vị thần thuộc “cõi u linh của nước Việt”. Sách được soạn bởi Lý Tế Xuyên (?- ?), một nhân vật từng làm quan trông coi việc tế tự thời vua Trần Hiến Tông (1329- 1341). Tác phẩm ghi lại 27 truyện về các vị thần trong đền miếu thời Lý - Trần. Sách này sau đó được Nguyễn Văn Chất (1422- ?, đỗ Tiến sĩ năm 1448), Cao Huy Diệu (?- ?, đỗ Tiến sĩ năm 1715), và một số tác giả khác bổ sung, hiệu đính và đặt lời bình. Truyện về Lý Ông Trọng trong sách này được mang tên mỹ tự của đức thánh Chèm, cho thấy đến thời Trần, tín ngưỡng này đã được triều đình công nhận và ban cấp sắc phong. Bản công bố lần này, chúng tôi dựa theo bản A.47 lưu trữ tại Viện NC Hán Nôm, và phụ chép bản dịch sớm của Lê Hữu Mục năm 1959(1)
Nội dung:
Hiệu Úy- Anh Liệt - Uy Mãnh - Phụ Tín Đại Vương
Theo sách “Giao châu ký”, Vương tên là Ông Trọng, người Từ Liêm, thân cao hai trượng, tài sức hơn người. Thiếu thời làm quan ở huyện ấp, bị Đô đốc đánh roi, bèn bỏ mà đi học, phát huy nghĩa lý kinh sử(2), làm quan nhà Tần đến chức Tư lệ Hiệu úy.
Khi Thủy Hoàng thôn tính thiên hạ, sai [ông] đem quân đánh giữ Lâm Thao, tiếng tăm chấn động Hung Nô. Thủy Hoàng lấy làm lạ lắm. Đến khi Vương già cả, trở về quê nhà. Thủy Hoàng sai sứ đúc tượng vương, đặt ngoài cửa Tư Mã cung Hàm Dương.
Vào năm đầu của niên hiệu Trinh Nguyên (785) đời Đường Đức Tông, sai Triệu Xương làm An Nam Đô hộ, Xương thường mơ thấy Vương đến, giảng giải về Tả truyện và kinh sử. Xương hỏi thăm nhà cũ, sai người lập đền thờ Ngài.
Đến khi Cao Biền phá quân Nam Chiếu, nằm mơ thấy Vương đến ứng giúp, bèn sửa sang mở rộng thêm quy mô đền thờ, đắp tượng ngài mà thờ làm phúc thần.
Đến đời Trần, niên hiệu Trùng Hưng thứ nhất (1285), phong làm Anh Liệt Vương, năm Trùng Hưng thứ tư (1288), gia phong thêm hai chữ “Uy Mãnh”, đến năm Hưng Long thứ 21 (1313) gia tặng thêm hai chữ “Phụ Tín”.
Hiệu Úy - Anh Liệt - Uy Mãnh - Phụ Tín Đại Vương Vương họ Lý tên Ông Trọng, người huyện Từ Liêm, mình cao hai trượng ba thước, khí chất đoan dũng khác người thường. Thiếu thời làm quan ở huyện ấp, bị quan Đô đốc đánh đòn, Vương than rằng:
Tráng chí của đời người như chim loan chim phượng, nhấc cánh một cái là bay muôn dặm, đâu thể để cho người thóa mạ, làm nô lệ cho người?
Vương bèn chăm học, ngày tháng dùi mài, phát minh kinh sử, vào làm quan nhà Tần, làm chức Tư lệ Hiệu úy. Đến lúc Tần Thủy Hoàng thôn tính thiên hạ, sai Vương đem binh trấn thủ Lâm Thao thì thanh danh chấn động Hung Nô. Thủy Hoàng lấy làm điềm tốt. Đến sau, Vương già cả về làng. Thủy Hoàng đúc tượng đồng, đặt ở ngoài cửa Tư Mã Hàm cung; trong ruột tượng chứa được vài mươi người, mỗi khi sứ bốn phương đến, thầm khiến người vào trong ruột lay động pho tượng; Hung Nô thấy thế kinh sợ cho là Hiệu uý còn sống, bảo nhau không dám xâm phạm biên giới.
Đời Đức Tông nhà Đường, niên hiệu Trinh Nguyên năm đầu (785), Triệu Xương qua làm Đô hộ nước An Nam ta thường qua chơi làng Vương, đêm mộng thấy cùng Vương nói chuyện trị dân, và giảng luận sách Xuân thu - Tả truyện, nhân đó Triệu Xương mới hỏi thăm nhà cũ của Vương hồi xưa, thì chỉ thấy mù khói ngang trời, sông nước mênh mông, rêu phong đường đá, xanh rời cụm hoang, một mảnh nhàn vân phất phơ trên đám cỏ thôn hoa rụng. Ông mới lập lại đền thờ, xưởng cao lầu lớn, rồi chuẩn bị lễ vật đem đến tế Vương.
Đến lúc Cao Biền đánh phá nước Nam Chiếu, Vương thường hiển linh trợ thuận. Cao Biền lấy làm kinh dị, sai thợ trùng tu từ vũ tráng lệ hơn xưa, và chạm khắc tượng gỗ son thếp giống như thực mà đem lễ vật đến tế, từ đó, hương hỏa không khi nào hết(3).
Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu (1285), sắc phong Anh Liệt vương, đến năm thứ tư (1288), gia phong hai chữ [Uy] Mãnh, năm Hưng Long thứ hai mươi (1312), gia phong Phụ Tín Đại Vương.
Hương, Bổng, Đổng, Đằng là bốn vị tối linh của nước ta vậy. Phù Đổng Đại Vương; Đằng Châu Thần Vương đều là linh khí hạo nhiên, không có thể là danh trạng được.
Lý Hiệu úy lấy tấm thân cao hai trượng, làm quan thượng quốc, giữ chức Tư lệ, oai khiếp Hung Nô, người ở Lâm Thao sợ oai mà mến đức. Sống thì người đều hâm mộ; chết thì nhớ chẳng quên. Tượng đồng đặt ngoài cửa, có máy lay chuyển động, oai hùng như sống, đứng xa mà trông đủ khiến cho bọn cường Hồ rụng hồn phách. Sau vài trăm năm lại thác mộng cho Triệu Xương, hiển linh cho Cao Biền, tiếng thơm oanh liệt, giống như các vị thiên thần không hơn không kém, như thế há chẳng hùng vĩ lắm thay!
Bấy giờ miếu ở làng Thụy Hương huyện Từ Liêm, cách phía đông thành bốn mươi dặm đền đài đồ sộ, miếu điện trang nghiêm, cao ngất ở trên bờ sông. Dầu cho sóng cả vỗ bờ, muôn dặm chảy xiết, vẫn nghiễm nhiên đứng vững không lay. Ngay trước miếu có bến đò ngang là con đường thượng lưu đến kinh phải ngang qua đấy, một chỗ đô hội lớn, thương mại hành nhân, cao tài đặc khách, chắp nối ngựa xe qua lại như dệt, mà trọn xưa vẫn an ổn, không xảy ra nạn gió sóng, nhân dân đều xưng tụng công đức của thần.
Làng Thụy Hương rất đông giàu, đến khi cúng tế, lễ vật long trọng tinh khiết, hằng năm đến ngày rằm tháng bảy, có ngày hội làm lễ Đại kỳ phúc, người đến xem đông như rừng, đường sá chợ búa nhà cửa có cái quang cảnh như thành thị.
Lễ tế, đồ thờ nghiêm chỉnh, người đến xem lễ đều phải khởi kính, so với hai đền Tiên Du và Kim Động cùng ngang hàng với nhau. Nhiều người đến đền cầu tự, có người bồng con đến xin Thần cho họ, như hai anh em Tiết, Nghĩa ở làng Vân Canh, đến xưng họ Lý họ Trần tức là Thần cho họ đó.
Tập Chích quái chép sự tích này cũng đồng với đây, nhưng trong ấy có vài chuyện như: đau bụng đi tiêu, đem cháo xin phép thần, và dùng Thủy ngân để liệm thây ma thì là quái đản, nên bỏ đi cũng được.
Vấn đề văn bản học của Việt điện u linh tập khá phức tạp. Hiện kho sách của Viện NC Hán Nôm có đến 8 bản chép tay [xem Đào Phương Chi. 2006. Nghiên cứu văn bản ‘Việt điện u linh tập’ và quá trình dịch chuyển của văn bản. LATS ngữ văn. Viện NC Hán Nôm]. Các bản dịch hiện nay khi công bố lại dựa trên nhiều bản nền Hán văn khác nhau [xem bản dịch của Trịnh Đình Dư, năm 1960 (tb.1994, 2001, 2012)]. Nay thấy bản dịch của Lê Hữu Mục là có nhiều điểm dị biệt nhất, lại có thêm lời tiếm bình, nên chọn vào đây để dễ so sánh.
Kinh sử: tức kinh và sử, hai trong bốn nhóm văn bản quan trọng theo cách phân loại thời xưa (kinh, sử, tử, tập).
Cao Biền thường gọi Lý Ông Trọng là Lý Hiệu úy. Phân biệt với Lý Đô úy là một nhân vật khác.